Chất lượng môi trường kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp. Theo báo cáo môi trường kinh doanh năm 2018 được Ngân hàng Thế giới công bố, Việt Nam đứng vị trí 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017. Bức tranh kinh tế Việt Nam đang phát triển tốt với số Dịp này, có 2 đồng chí đại diện cho 64 người được Trung ương Hội LHPN Việt Nam tặng Kỷ niệm chương "Vì sự phát triển của phụ nữ Việt Nam" do có nhiều đóng góp cho công tác Hội và phong trào phụ nữ thời gian qua. Một trang trại xây dựng theo hướng phát triển bền vững của Vinamilk. Ảnh: VNM Tại hội thảo chuyên đề do Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VBCSD-VCCI) tổ chức, Chủ tịch hội đồng thành viên Deloitte Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch VBCSD Hà Thị PTI vừa được Phòng thương mại và công nghệ Việt Nam (VCCI) tặng Bằng khen vì đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển cộng đồng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2012. Trong buổi Lễ này, PTI là một trong 14 doanh nghiệp của Hà Nội vinh dự đạt được thành tựu này. PV SLP Việt Nam. hạ tầng logistics. Đánh giá của bạn: Mời các bạn tham gia vào group Diễn đàn Doanh nghiệp để thảo luận và cập nhật tin tức. Bạn đang đọc bài viết Sự khác biệt của SLP tại chuyên mục Doanh nghiệp của Báo Diễn đàn doanh nghiệp. Liên hệ cung cấp thông tin 06HEj. Hà Nội, ngày 3 tháng 11 năm 2021 — Tăng cường hấp thụ, phổ biến công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt Nam - đó là thông điệp chính của hai báo cáo về đổi mới sáng tạo được công bố tại sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đồng tổ chức hôm học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt NamBáo cáo "Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam” là sản phẩm của Chương trình Hỗ trợ phân tích và tư vấn của Ngân hàng Thế giới về nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo Việt Nam. Báo cáo được xây dựng theo đặt hàng của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, do Chương trình Đối tác chiến lược Giai đoạn II giữa Chính phủ Úc và Nhóm Ngân hàng Thế giới ABP2 tài trợ. Báo cáo nghiên cứu khung phát triển và chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện tại, phân tích những điểm nghẽn cản trở các doanh nghiệp đổi mới và đề xuất một nghị trình cải cách toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng dẫn dắt bởi đổi mới sáng Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định “Việt Nam sẽ cần những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế để có thể đạt được tham vọng trở thành một nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 và đổi mới sáng tạo sẽ là nền tảng cơ bản trong việc nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, có nhiều cách tiếp cận khác nhau để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và báo cáo này đưa ra những ý tưởng có thể phù hợp cho Việt Nam”.Báo cáo khuyến nghị Việt Nam nên tái cân đối chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mình, chuyển từ tập trung đầu tư tạo ra công nghệ tiên tiến sang thúc đẩy hấp thụ và phổ biến công nghệ giữa nhóm các doanh nghiệp. Sự lan tỏa công nghệ - không chỉ là nghiên cứu và phát triển - có thể mang lại hiệu quả năng suất và chuyển đổi kinh tế đáng kể. Đây chính là điểm mà các can thiệp chính sách và hỗ trợ từ Chính phủ có thể mang lại lợi ích lớn tâm xây dựng năng lực để tận dụng tối đa các công nghệ hiện đại nhất nên là ưu tiên hàng đầu. Việc thu hẹp khoảng cách về kỹ năng của lực lượng lao động - cả chất lượng và số lượng - cũng sẽ rất quan trọng để khai thác toàn bộ sức mạnh của đổi mới sáng phát hiện và khuyến nghị này phù hợp với báo cáo cấp khu vực do Ngân hàng Thế giới thực hiện trước đó với tiêu đề “Đổi mới sáng tạo ở các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á – Yêu cầu cấp thiết”. Báo cáo này đã chỉ ra sự không phù hợp giữa các chính sách về đổi mới sáng tạo và khả năng cũng như nhu cầu của các doanh nghiệp và các tổ chức. Đây cũng là vấn đề phổ biến giữa các quốc gia trong khu vực, một lý do dẫn tới sự tụt hậu so với các nền kinh tế tiên tiến về bề rộng và cường độ sử dụng công nghệ cáo cho rằng việc áp dụng đổi mới sáng tạo sâu rộng hơn nữa có thể giúp các quốc gia vượt lên các thách thức mới để tiếp tục phát triển, kể cả các yếu tố xung đột địa chính trị toàn cầu, đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu và sự sụt giảm đáng kể về tăng trưởng năng suất. Để thúc đẩy đổi mới sáng tạo đòi hỏi một chương trình cải cách toàn diện. Ngoài việc định hướng lại các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phù hợp hơn với năng lực và nhu cầu của doanh nghiệp, các quốc gia cần tăng cường các yếu tố bổ trợ quan trọng cho đổi mới sáng tạo như kỹ năng của người lao động và khả năng tiếp cận tài chính cho các dự án đổi mới sáng mới công nghệ ở Việt Nam Đánh giá tác động của công nghệ đến tăng trưởng kinh tếTác động của việc hấp thụ công nghệ cũng được định lượng rõ ràng trong báo cáo “Đổi mới công nghệ ở Việt Nam Đánh giá tác động của công nghệ đến tăng trưởng kinh tế” do CSIRO, cơ quan khoa học quốc gia Australia và các đơn vị thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng thực tài trợ bởi Chương trình Aus4Innovation, báo cáo cung cấp các công cụ để đánh giá hiện trạng và tác động của tiến bộ công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Bằng cách áp dụng các mô hình kinh tế vào cơ sở dữ liệu rộng lớn về việc hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố công nghệ đóng góp hơn 50% tổng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn biểu tại sự kiện ra mắt, Bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia tại Việt Nam, chia sẻ “Australia đã và đang hỗ trợ Việt Nam đưa ra các quyết định chính sách dựa trên cơ sở thực chứng trong lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và báo cáo này là một mốc quan trọng nữa trong quan hệ đối tác của chúng tôi. Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Australia và Việt Nam đã thực hiện báo cáo này trong một năm rưỡi, thu thập và phân tích dữ liệu trong giai đoạn gần 20 năm qua để phát triển hai mô hình kinh tế hiện đại nhằm lượng hóa mức độ đóng góp của tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi hy vọng rằng Bộ Khoa học và Công nghệ có thể vận dụng hai mô hình này trong hoạch định các chính sách về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia trong dài hạn”.Báo cáo là nguồn tham khảo chính sách quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và cho thấy tính hiệu quả và nhân tố đổi mới sáng tạo đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế so với vốn và lao động giá vọng cho Việt Nam “Các báo cáo đã chỉ rõ vai trò đóng góp quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế - xã hội ở Việt Nam và con đường để Việt Nam tiến về phía trước, không ngừng hoàn thiện và nâng cao năng lực hệ sinh thái đổi mới sáng tạo,” Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam ông Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh. “Chúng tôi sẽ tiếp tục tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình sáng tạo, truyền bá, ứng dụng tri thức và công nghệ phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững đất nước đến năm 2030 và 2045. Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá cao hỗ trợ của Chính phủ Australia và Ngân hàng Thế giới trong các nỗ lực này và mong muốn có thêm các sáng kiến ​​hợp tác tiếp theo để đưa các khuyến nghị, công cụ hữu ích này vào thực tiễn”.Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh chóng cả về phương diện kinh tế và công nghệ trong những năm gần đây. Vai trò của người lãnh đạo cùng với thể chế mạnh sẽ là chìa khóa để Việt Nam tận dụng cơ hội và tháo gỡ các nút thắt để không ngừng phát triển mạnh mẽ hơn nữa. News Release 28 Tháng 4 2021 Read time 5 mins HÀ NỘI, VIỆT NAM 28 tháng 4 năm 2021 — Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ phục hồi ở mức 6,7% trong năm nay bất chấp sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID-19 ở các quốc gia lân cận, và tăng lên 7,0% trong năm 2022, theo một báo cáo mới đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB. “Tiêu dùng nội địa trì trệ và sức cầu bên ngoài yếu do đại dịch COVID-19 làm giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong năm ngoái, nhưng đà tăng trưởng vẫn tiếp tục mạnh trong năm nay và năm sau, nhờ thành công của Việt Nam trong việc kiểm soát sự lây lan của virus,” Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam Andrew Jeffries phát biểu. “Nhưng năm nay và năm sau vẫn còn nhiều rủi ro đáng kể, trong đó có sự trở lại của các biến thể virus corona mới và sự chậm trễ trong chương trình vắc-xin của chính phủ.” Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á ADO 2021 nhận định rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ được thúc đẩy bởi ngành công nghiệp chế biến chế tạo định hướng xuất khẩu, tăng đầu tư và mở rộng thương mại. Đà tăng trưởng được dự báo sẽ tiếp tục, nhờ các chương trình cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và sự tham gia của Việt Nam vào nhiều hiệp định thương mại tự do với hầu hết các nền kinh tế phát triển. Giá dầu thế giới và tiêu dùng nội địa cùng gia tăng, dự kiến sẽ đẩy tỉ lệ lạm phát lên 3,8% trong năm nay và 4,0% trong năm 2022. Sự phục hồi nhanh hơn so với dự kiến ở Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Mỹ sẽ cải thiện đáng kể triển vọng thương mại và tăng trưởng của Việt Nam, báo cáo nhận định. Tuy nhiên, tốc độ triển khai chương trình tiêm chủng COVID-19 không đồng đều trên toàn cầu có thể trì hoãn việc Việt Nam trở lại với mức tăng trưởng mạnh mẽ trước đại dịch, do nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Đầu tư tư nhân trong nước phục hồi nhanh chóng có thể làm trầm trọng thêm nguy cơ bong bóng tài sản, nếu như tín dụng không được dẫn hướng vào các lĩnh vực sản xuất. Báo cáo còn nhận định rằng Việt Nam có thể duy trì tăng trưởng bao trùm bằng cách làm dịu đi tác động của đại dịch đối với nghèo đói và thu nhập. Báo cáo kêu gọi chính phủ áp dụng một chiến lược bền vững, dài hạn để giúp đỡ cho sinh kế của người nghèo và người dễ bị tổn thương thông qua những biện pháp như đào tạo nghề và cải thiện tiếp cận với tín dụng vi mô cho các doanh nghiệp mới. ADB cam kết đạt tới một khu vực châu Á và Thái Bình Dương thịnh vượng, đồng đều, thích ứng và bền vững, trong khi duy trì nỗ lực xoá đói nghèo cùng cực. Được thành lập năm 1966, ADB thuộc sở hữu của 68 thành viên, trong đó có 49 thành viên trong khu vực. Media Contact Related Tại Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN chiếm 97% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam và tốc độ tăng trưởng của các DNVVN cũng cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp lớn và vừa. Các DNVVN chiếm phần lớn trong lĩnh vực dịch vụ hay FnB thực phẩm và đồ uống, những lĩnh vực dễ bị tổn thương khi nền kinh tế gặp biến động. Hệ quả rõ ràng mà chúng ta có thể thấy là khi đại dịch COVID-19 bùng phát, đây là những ngành nghề bị ảnh hưởng nặng nề nhất và chuyển đổi kỹ thuật số trên diện rộng đã trở thành điều bắt buộc đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiềm năng phát triển to lớn Trong bối cảnh chưa từng có tiền lệ như hiện nay, nền tảng thương mại điện tử B2B toàn cầu của Tập đoàn Alibaba Trung Quốc đã đánh dấu một năm hoạt động đầy năng động tại Việt Nam, với hàng loạt sáng kiến nhằm đẩy nhanh chuyển đổi số, hỗ trợ các DNVVN Việt Nam vượt qua thách thức, phát triển và vươn ra toàn cầu ngay cả trong thời kỳ đại dịch. Ngoài ra, với 3 Hiệp định Thương mại tự do FTA đã ký với Liên minh châu Âu EVFTA, khu vực ASEAN và 5 nước RCEP và Vương quốc Anh UKVFTA vào năm 2020, nhu cầu chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp để xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và tận dụng công nghệ tiên tiến, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được đào tạo về cách thiết lập và vận hành cửa hàng ảo, đăng sản phẩm, nắm rõ phương thức quảng cáo bằng từ khóa, quản lý lưu lượng truy cập và đơn hàng, xác định xu hướng của người tiêu dùng, xây dựng video giới thiệu sản phẩm và tổ chức các buổi phát trực tiếp livestream nhằm tiếp cận người mua toàn cầu bất chấp việc các buổi triển lãm thương mại truyền thống và các chuyến công tác đang bị gián đoạn. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phát huy thế mạnh về năng lực sản xuất, sản phẩm chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; để nắm bắt cơ hội tiếp cận người mua toàn cầu từ chuyển đổi kỹ thuật số. Nền tảng thương mại điện tử B2B giúp các doanh nghiệp tận dụng xu hướng tất yếu này và phát triển kinh doanh bền vững, dễ dàng và hiệu quả. Trong năm 2021, công ty sẽ tiếp tục làm việc với chính phủ, với các DNVVN tại địa phương để tìm kiếm cơ hội mới và tổ chức các sự kiện và hội thảo nhằm giúp các doanh nghiệp cập nhật những giải pháp và xu hướng toàn cầu mới nhất trong thương mại điện tử. Vươn ra thế giới một cách dễ dàng Từ sứ mệnh của Tập đoàn Alibaba “tạo điều kiện kinh doanh dễ dàng ở bất cứ đâu”, năm 2020 bắt đầu bằng hội thảo trực tuyến nhằm giới thiệu những cơ hội mà thương mại điện tử xuyên biên giới B2B mang lại trong bối cảnh COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp cũng như cách tận dụng các công cụ và giải pháp của nền tảng như triển lãm thương mại trực tuyến và phát trực tiếp livestream. Tiếp theo đó, sáng kiến mang tính bước ngoặt, đã được giới thiệu nhằm hỗ trợ các DNVVN Việt Nam trong ba nhiệm vụ chính - tham gia nhanh hơn vào nền tảng để thiết lập phạm vi tiếp cận toàn cầu, tận dụng các giải pháp giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh doanh và các dịch vụ được thiết kế riêng để giúp các DNVVN phát triển khả năng thương mại trực tuyến. Cũng trong năm qua, công bố triển khai dự án 100 nhà xuất khẩu tài ba Việt Nam, một sáng kiến dài hạn nhằm tôn vinh những nhà bán hàng xuất sắc trong nước, đồng thời cung cấp cho các DNVVN Việt Nam các chương trình ưu đãi về đào tạo và tư vấn nhằm nâng cao năng lực bán hàng, khả năng tiếp thị, quảng bá sản phẩm cũng như khả năng hoạch định chiến lược kinh doanh hiệu quả. Năm 2020 cũng đánh dấu sự hợp tác của với Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương với mục tiêu nâng cao nhận thức về chuyển đổi số của DNVVN và thúc đẩy quá trình bằng cách nâng cao năng lực trực tuyến và kỹ năng vận hành thông qua các khóa đào tạo và sáng kiến được thiết kế riêng. Hai bên đã tổ chức loạt hội thảo dành cho các DNVVN tại 5 tỉnh thành là Hà Nội, Lào Cai, Đà Nẵng, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những thành phố lớn, có nhiều khu công nghiệp quan trọng và nhiều công ty xuất khẩu tiềm năng, đã rất hào hứng và hăng hái tham gia học hỏi kinh nghiệm xuất khẩu trực tuyến toàn cầu. Tiếp tục nỗ lực để tiếp cận DNVVN Với mục tiêu cam kết hỗ trợ DNVVN Việt Nam trong 3 năm tới và đẩy mạnh chuyển đổi kỹ thuật số, vào năm 2021, sẽ tiếp tục làm việc với chính quyền địa phương, cung cấp các dịch vụ và giải pháp trực tuyến phù hợp và hiệu quả. Trong năm 2021, sẽ tiếp tục chuỗi hội thảo hợp tác với Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, mở rộng sang nhiều loại hình sự kiện bao gồm hội thảo, sự kiện lớn và roadshow tại các khu công nghiệp. Trong tháng 1 và tháng 2, và Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục tổ chức 4 buổi hội thảo tại 4 tỉnh, thành phố công nghiệp quan trọng của Việt Nam là Vũng Tàu, Quảng Ninh, Quy Nhơn và Buôn Mê Thuột. Với mục tiêu gia tăng và đẩy nhanh chuyển đổi số trong lĩnh vực kinh doanh, chúng tôi hợp tác với một nền tảng thương mại điện tử toàn cầu đáng tin cậy để chia sẻ kinh nghiệm và các bài học thực tiễn của họ cũng như cách các doanh nghiệp có thể tận dụng chúng để tồn tại và phát triển. Thông qua quan hệ đối tác với chúng tôi cam kết cung cấp các hoạt động và chương trình đào tạo hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp họ vượt qua những thách thức hiện nay”, ông Hoàng Minh Chiến - Phó Cục Trưởng Cục Xúc tiến Thương mại - Bộ Công Thương cho biết. Với lợi thế và kiến thức chuyên môn của một nền tảng thương mại điện tử B2B hàng đầu, sẽ tiếp tục cung cấp các dịch vụ tư vấn, các lớp đào tạo và các công cụ thân thiện với người dùng để mang đến cho các DNVVN nhiều cơ hội trực tuyến hơn và hỗ trợ họ trong thời kỳ tình hình môi trường và kinh tế toàn cầu luôn thay đổi. Trước yêu cầu phát triển mới, hơn lúc nào hết, đội ngũ doanh nhân cần tiếp tục phát huy vai trò, khẳng định vị thế, góp phần hiện thực hóa khát vọng vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Có nhiều đóng góp cho nền kinh tế Đội ngũ doanh nhân được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế-xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, cùng nhiều chính sách hỗ trợ, tạo động lực đã được ban hành và thực thi, đến nay đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện. Nhiều doanh nhân đã làm rạng rỡ trí tuệ, nghĩa khí, tài năng Việt Nam khi tên tuổi đã vượt ra ngoài đất nước, xếp hạng cùng những doanh nhân lớn trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam đã có sự phát triển không ngừng về số lượng. Tính đến nay, Việt Nam đang có khoảng gần 7 triệu doanh nhân, 860 nghìn doanh nghiệp. Khu vực này cũng đóng góp hơn 60% GDP, 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo ra việc làm cho 14,7 triệu lao động, chiếm gần 28% lực lượng lao động của toàn xã hội. Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Theo đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc Bộ Chính trị khóa XI ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW cho thấy Đảng ta đã có sự nhìn nhận, đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ doanh nhân trong tình hình mới. Đến nay, rất nhiều doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã tạo đột phá trong quản trị doanh nghiệp, sản xuất, kinh doanh để hình thành những tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh với những dự án đầy tham vọng, mang tầm vóc quốc tế, tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như sản xuất ô-tô, hàng không, công nghệ thông tin,... Bên cạnh đó, đội ngũ doanh nhân còn tạo công ăn việc làm, cũng như an sinh xã hội, phục vụ công tác xóa đói, giảm nghèo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đồng chí Trần Tuấn Anh chỉ ra nhiều hạn chế của cộng đồng doanh nhân cần sớm khắc phục như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp vẫn ở mức trung bình so thế giới, chưa đạt mục tiêu lọt vào nhóm 3, nhóm 4 của ASEAN,... Việc khơi dậy, phát huy đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam chưa được quan tâm tương xứng, chưa thật sự trở thành nguồn lực phát triển bền vững cho đất nước. Do đó, đội ngũ doanh nhân cần tiếp tục nghiên cứu, có giải pháp mới để xây dựng và phát huy vai trò của mình gắn với thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với đó là những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao về nâng cao năng lực, phẩm chất, chất lượng nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp; xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân đủ tài, đủ tâm và đủ tầm để đáp ứng được những thay đổi và thách thức ngày càng lớn của môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế,... Chủ động, linh hoạt, sáng tạo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa Cao Tiến Đoan. Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thanh Hóa Cao Tiến Đoan, nhờ có những chủ trương, chính sách hỗ trợ đúng, trúng của Chính phủ và Quốc hội, sau hơn hai năm chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp đã thích ứng và vực dậy, nắm bắt những cơ hội mới để phát triển. Từ đó, giúp năng lực của đội ngũ doanh nhân là chủ các doanh nghiệp cải thiện rõ rệt. Song cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một thực tế số lượng và chất lượng đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, hiệu quả hoạt động chưa cao. Vì vậy, Chính phủ cần có thêm những cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển văn hóa doanh nghiệp để trở thành một lợi thế cạnh tranh trên sân chơi toàn cầu; đẩy mạnh chuyển đổi số, áp dụng công nghệ mới vào mô hình quản trị, phương thức điều hành; đầu tư, nghiên cứu hơn nữa trong sản xuất, kinh doanh để chủ động thích ứng với thị trường. Cùng với đó, trong thời gian tới mong Quốc hội tiếp tục tăng cường tính giám sát nhằm giúp cộng đồng doanh nghiệp có thêm niềm tin trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo sự yên tâm, giảm sự rủi ro, tránh được những biến động bất ngờ trong thể chế, chính sách để bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh luôn an toàn, thuận lợi và ổn định cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhiều lần khẳng định, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sâu rộng, hiệu quả dựa trên ba trụ cột là con người, tài nguyên thiên nhiên và truyền thống lịch sử, văn hóa, do đó, cần phát huy tối đa năng lực, phẩm chất, trí tuệ của người Việt Nam trong mỗi doanh nhân; xây dựng văn hóa lành mạnh, văn minh, chuyên nghiệp, bình đẳng trong doanh nhân, đặt lợi ích của dân tộc, đất nước lên trên hết; bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn năm 2021-2030 trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra nhiệm vụ, phải phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng và chất lượng; khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế; phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất hai triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt từ 60-65%. Điều này thể hiện khát vọng của dân tộc nhưng cũng đặt ra rất nhiều những áp lực, thách thức cho cả hệ thống chính trị. Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công. Để hiện thực khát vọng này, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Tấn Công cho rằng, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân cần chủ động trau dồi thêm kiến thức pháp luật kinh doanh, nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong quản lý, tính chuyên nghiệp; linh hoạt, sáng tạo hơn nữa trong cạnh tranh và hội nhập; từng bước xây dựng văn hóa liêm chính, đạo đức trong kinh doanh, cũng như tạo thêm sự liên kết phát triển chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh sự nỗ lực từ cộng đồng doanh nghiệp, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng bảo vệ, khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính, đổi mới sáng tạo; ngăn ngừa doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn phi pháp; thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời tâm tư nguyện vọng của doanh nhân, tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Từ đó, khơi dậy, khuyến khích, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, khát vọng làm giàu chân chính trong xã hội. Phát triển trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu doanh nghiệp bất động sản giai đoạn 2017-2022 Giai đoạn vừa qua, thị trường trái phiếu nói chung và TPDN nói riêng đã có những bước phát triển tích cực. Quy mô thị trường trái phiếu cuối năm 2021 đạt 39,26% GDP, đến cuối năm 2022 đạt 40,76% GDP mục tiêu đề ra của giai đoạn 2021-2025 là 47% GDP; dư nợ thị trường TPDN cuối năm 2021 đạt 15% GDP, trong đó tổng khối lượng phát hành riêng lẻ là tỷ đồng, tăng 38% so với năm 2020. Đến cuối năm 2022 dư nợ thị trường TPDN đạt khoảng 16% GDP theo Báo cáo số 13362/BTC-NSNN ngày 20/12/2022 của Bộ Tài chính về kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, tổng dư nợ TPDN riêng lẻ khoảng tỷ đồng. Nhìn chung, thị trường TPDN còn khá khiêm tốn so với tiềm năng và mục tiêu đề ra Chiến lược tài chính đến năm 2030 đặt ra mục tiêu quy mô thị trường TPDN đến năm 2025 là 20% GDP và đến năm 2030 đạt tối thiểu 25% GDP. Hình 1 Khối lượng TPDN phát hành giai đoạn 2017-2022 Nguồn Trần Đình Thiên 2023 Hình 2 Cơ cấu TPDN năm 2021-2022 Nguồn FiinRatings, HNX 2023 Trong tổng dư nợ thị trường TPDN, TPDN của BĐS chiếm tỷ lệ khá cao. Năm 2021, BĐS chiếm đến 41% tổng dư nợ TPDN. Năm 2022, mặc dù tỷ lệ này có giảm xuống những vẫn chiếm 32% tổng dư nợ TPDN và đạt khoảng tỷ đồng Thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Giá trị TPDN BĐS đáo hạn cũng chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng dư nợ TPDN đáo hạn giai đoạn 2022-2026. Theo đó, tổng lượng TPDN đáo hạn trong giai đoạn 2022-2026 ước đạt 774,23 nghìn tỷ đồng, trong đó TPDN BĐS là 358,36 nghìn tỷ đồng, chiếm 46,3 % tổng giá trị TPDN đến hạn. Áp lực trái phiếu đến hạn thanh toán lớn, trong bối cảnh thị trường BĐS trầm lắng, doanh thu và chất lượng lợi nhuận suy giảm… có thể dẫn đến số lượng doanh nghiệp DN gặp khó khăn về khả năng thanh toán gia tăng. Theo kết quả đánh giá của Fiin Group 2023, khả năng trả nợ của tất cả các DN BĐS trong giai đoạn 2018-2022 đều suy giảm Hình 4. Điều này cũng dẫn đến khả năng huy động vốn trên thị trường trái phiếu gặp nhiều hạn chế và gia tăng các rủi ro tái cấp vốn của DN kinh doanh BĐS. Những tác động đến thị trường bất động sản giai đoạn 2017-2022 Sự bổ sung kịp thời của dòng vốn TPDN trong giai đoạn vừa qua đã tạo ra những kết quả phát triển khá tích cực cho thị trường BĐS, cụ thể Một là, TPDN đã tạo ra một nguồn vốn lớn, ổn định, liên tục, thông suốt cho thị trường BĐS, đặc biệt khi các ngân hàng thực hiện phương án siết chặt nguồn vốn vay đổ vào BĐS. Trong giai đoạn 2017-2022, tổng lượng vốn trái phiếu phát hành vào khoảng 1,3 triệu tỷ. Trong đó, một tỷ lệ rất lớn khoảng trên dưới 50% được dành cho thị trường BĐS. Nhờ sự bổ sung của nguồn vốn này hàng loạt các dự án BĐS mới được phát triển như các dự án tại Hạ Long, Cam Ranh, Đà Nẵng… Hai là, việc phát triển thị trường TPDN BĐS đã làm đa dạng thêm các luồng tiền vào thị trường BĐS, qua đó, chứng minh công cụ trái phiếu có thể phát triển lành mạng cùng với các công cụ huy động vốn khác, giúp DN BĐS giảm sự phụ thuộc lớn vào nguồn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng hay tiền đóng góp từ các nhà đầu tư tiềm năng như trước đây. Hơn nữa, việc hiện thực hóa được công cụ trái phiếu với thị trường BĐS còn đóng góp vai trò thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các công cụ tài chính khác mà hiện chưa được hình thành và phát triển tại Việt Nam, để tạo vốn cho thị trường BĐS. Chẳng hạn như công cụ tái thế chấp; công cụ quỹ tiết kiệm tương hỗ, công cụ chứng khoán hóa các khoản thế chấp BĐS; công cụ quỹ đầu tư tín thác BĐS; quỹ đầu tư hưu trí… Ba là, trái phiếu BĐS đã góp phần thu hút một lượng vốn trong xã hội trong bối cảnh đại dịch, giãn cách xã hội và nhiều ngành sản xuất phải điều chỉnh, thu hẹp. Qua đó, ngoài việc tạo nguồn thu cho những người sở hữu trái phiếu thông qua tiền lãi, trái phiếu còn tạo dòng tiền vận hành trong xã hội. Nghĩa là, trái phiếu đã hỗ trợ nền kinh tế nói chung và thị trường BĐS nói riêng tránh được thiệt hại do dòng vốn ngừng vận động. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, TPDN cũng tiềm ẩn nhiều tác động tiêu cực đến nhịp độ phát triển của thị trường BĐS. Một số tác động tiêu cực cụ thể như sau Một là, các DN phát hành lượng trái phiếu quá lớn, làm mất cân đối giữa các luồng tiền đối với thị trường BĐS. Thị trường BĐS thông thường có các luồng vốn cơ bản i Luồng vốn trực tiếp từ các DN phát triển BĐS, các nhà đầu tư thứ cấp BĐS, tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại…; ii Luồng vốn từ các chủ thể đồng hành FDI, ODA, Đầu tư công, chứng khoán, kiều hối…; iii Các công cụ tài chính phái sinh Trái phiếu; quỹ đầu tư; hệ thống tái thế chấp; đầu tư chung tài sản là BĐS với số hạn mức sử dụng nhất định - timeshare; quỹ hưu trí…. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2019-2021, các luồng vốn khác hầu như không đổi, chỉ có luồng vốn từ trái phiếu tăng mạnh. Hệ quả là, khi luồng vốn này chịu kiểm soát và điều chỉnh, chế tài, thị trường BĐS bị ảnh hưởng rõ nét. Cùng với đó, lượng vốn đến hạn của năm 2023 lớn làm các DN đối mặt với khó khăn về thanh khoản, từ đó, làm thị trường BĐS gặp khó khăn. Mặc dù, lượng trái phiếu đáo hạn là 157,8 nghìn tỷ nhưng một số lượng lớn trái phiếu các DN phát hành phải mua lại trước hạn và trả lãi đã gây nên sức ép lớn cho các DN phát hành trái phiếu. Từ đó, gây nên tình trạng hạn chế tăng thêm vốn cho thị trường BĐS. Hai là, lãi suất đầu tư vào trái phiếu BĐS cao dẫn đến rủi ro về khả năng trả nợ của DN. Nếu lãi suất huy động của các ngân hàng trong giai đoạn 2017-2022 hầu như ở mức thấp từ 5% - 5,5%/năm cho kỳ hạn 12 tháng thì kênh huy động vốn từ trái phiếu BĐS được nhiều nhà đầu tư lựa chọn hơn bởi mức lãi suất vô cùng hấp dẫn từ 8% - 10%/năm. Tuy nhiên, lãi suất càng cao thì rủi ro tiềm ẩn sẽ càng lớn. Bởi nếu DN phát hành trái phiếu với lãi suất càng cao để thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào mà bản thân DN không cung cấp được đầy đủ các thông tin cần thiết, không có sự quản lý, giám sát của cơ quan chức năng và điều này sẽ dẫn đến tình trạng các DN không thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Không chỉ vậy, việc đầu tư vào trái phiếu BĐS một cách tràn lan của nhà đầu tư kết hợp với sự “tích cực” trong quá trình phát hành từ các DN, từ đó, hiện tượng “bong bóng” trên thị trường trái phiếu BĐS nói riêng và thị trường chứng khoán là không thể tránh khỏi. Ba là, phát hành trái phiếu BĐS không có tài sản bảo đảm hoặc có tài sản bảo đảm là cổ phiếu. Theo báo cáo từ SSI Research 2022, các DN BĐS vẫn là nhóm phát hành trái phiếu với giá trị lớn nhất, tổng cộng tỷ đồng trong năm 2021, chiếm 44% tổng lượng TPDN đã phát hành và tăng 66,3% so với năm 2020. Tuy nhiên, số trái phiếu không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm một phần hoặc toàn bộ bằng cổ phiếu lên đến tỷ đồng, chiếm 54,2% lượng phát hành năm 2021. Việc phát hành trái phiếu BĐS mà không có tài sản bảo đảm ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của nhà đầu tư. Trường hợp DN rơi vào tình trạng “vỡ nợ” thì các nhà đầu tư sẽ là chủ thể phải gánh chịu nhiều rủi ro nhất. Bên cạnh đó, việc sử dụng cổ phiếu làm tài sản bảo đảm cho số trái phiếu BĐS phát hành trên thị trường diễn ra khá phổ biến. Tuy nhiên, việc sử dụng tài sản bảo đảm là cổ phiếu DN khi phát hành trái phiếu BĐS sẽ chứa đựng nhiều rủi ro. Cụ thể, khi một DN rơi vào tình trạng không còn khả năng trả nợ, tài chính bị ảnh hưởng thì giá cổ phiếu trên sàn sẽ giảm hoặc không còn giá trị. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận của DN hoặc DN sẽ bị thâu tóm bởi các DN khác, qua đó ảnh hưởng đến sự hoạt động ổn định, lành mạnh của thị trường BĐS. Bốn là, các điểm nghẽn xuất hiện trong quá trình phát triển thị trường TPDN đem lại cho thị trường BĐS có thể kéo theo tâm lý không thuận lợi đối với việc chấp nhận các công cụ huy động vốn mới cho thị trường như công cụ tái thế chấp; quỹ đầu tư trong đó có công cụ - quỹ đầu tư tín thác BĐS – REIT – Teal Estate Investment Trust; quỹ tiết kiệm tương hỗ; quỹ tiết kiệm hưu trí… Có nhiều nguyên nhân làm cho trái phiếu BĐS gây nên những hệ lụy cho thị trường BĐS giai đoạn 2019-2023. Thứ nhất, do các nguồn vốn khác khó khăn, trong khi nhu cầu luồng tiền lớn nên các DN đã dựa hẳn vào nguồn vốn trái phiếu. Trong giai đoạn 2019-2022, trùng với thời gian diễn ra đại dịch COVID-19, rất nhiều ngành sản xuất giãn tiến độ sản xuất, lượng vốn trong xã hội khó luân chuyển. Một lượng tiền tìm tới thị trường BĐS như một hành động trú ẩn. Hệ quả là giá BĐS tăng. Như là một yếu tố tác động kéo theo, nhiều DN BĐS triển khai nhiều dự án – đặc biệt là các dự án BĐS cao cấp. Đến lượt mình, thị trường BĐS tăng nhu cầu vốn. Tuy nhiên, thị trường vốn những năm 2019-2022 không tăng trưởng như mong muốn. Trong khi đó, công cụ TPDN còn dư địa. Hệ quả là các DN nói chung và các DN BĐS nói riêng, chuyển trọng tâm thu hút vốn thông qua TPDN. Việc ồ ạt phát hành trái phiếu BĐS đã khiến các DN và nhà đầu tư phải đối mặt với nhiểu rủi ro. Thứ hai, thông tin về sự thu hút tổng vốn trái phiếu không thông suốt nên tổng lượng trái phiếu do các DN phát hành đã tăng bất thường, vượt quá năng lực của nền kinh tế. Một lượng vốn thu hút trên thị trường cũng như việc sử dụng nguồn tiền cần phải đảm bảo đúng mục đích và phải được kiểm soát một cách tổng thể và sát xao. Trong thực tiễn những năm 2019-2022, vì nhiều lý do, điều này đã không được thực hiện một cách đồng bộ. Đã có những vi phạm xảy ra, có một số DN phát hành trái phiếu đã không sử dụng đúng mục đích. Hệ quả là, thị trường trái phiếu BĐS nói riêng và thị trường BĐS nói chung bị ảnh hưởng về tính an toàn và tính thanh khoản. Thứ ba, thị trường trái phiếu phản ứng thái quá - khi thuận lợi thì mở ra quá lớn – khi bất lợi thì thu hẹp quá nhiều. Vì vậy, nó tạo ra những tác động ngoại sinh, đôi khi rất khó lường cho thị trường BĐS nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thứ tư, do sự chưa hoàn thiện của hệ thống luật pháp Để thị trường phát triển bình ổn, lành mạnh, các chính sách tài chính, tiền tệ, đất đai, xây dựng, BĐS, đầu tư, đầu tư công, đất thầu, quy hoạch phải được xây dựng và vận hành đồng bộ. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập. Hệ quả là, các DN BĐS nói riêng và thị trường BĐS nói chung bị ảnh hưởng. Đối với vấn đề trái phiếu BĐS, các nội hàm về tính chưa đồng bộ cũng không phải ngoại lệ. Theo báo cáo từ SSI Research 2022, các doanh nghiệp bất động sản vẫn là nhóm phát hành trái phiếu với giá trị lớn nhất, tổng cộng tỷ đồng trong năm 2021, chiếm 44% tổng lượng trái phiểu doanh nghiệp đã phát hành và tăng 66,3% so với năm 2020. Tuy nhiên, số trái phiếu không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm một phần hoặc toàn bộ bằng cổ phiếu lên đến tỷ đồng, chiếm 54,2% lượng phát hành năm 2021. Việc phát hành trái phiếu bất động sản mà không có tài sản bảo đảm ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của nhà đầu tư. Thứ năm, do điều hành chưa đồng bộ, thông suốt đối với thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường BĐS nói chung. Những năm 2012-2018, thị trường condotel-officetel phát triển mạnh nhưng không có chế tài pháp luật đủ tốt tương ứng. Hệ quả là thị trường condotel-officetel phát triển cực đỉnh vào năm 2018 rồi thoái trào. Tình trạng tương tự đang xảy ra đối với thị trường trái phiếu BĐS. Việc thị trường trái phiếu BĐS manh nha từ năm 2017 và phát triển mạnh vào năm 2019-2021 đã làm cho trái phiếu nói chung và trái phiếu BĐS nói riêng tăng trưởng mạnh. Tuy nhiên, năm 2022, cùng với việc kiểm soát tín dụng; trái phiếu BĐS được kiểm soát. Do không được cảnh báo trước nên các biện pháp khá đột ngột đối với các DN phát hành trái phiếu nói chung và trái phiếu BĐS nói riêng chẳng hạn như phải mua lại trước hạn các trái phiếu. Hệ quả là, DN phát hành trái phiếu BĐS gặp khó khăn và thị trường BĐS bị ảnh hưởng. Quan điểm, định hướng phát triển thị trường bất động sản và trái phiếu bất động sản Phát triển thị trường BĐS an toàn, lành mạnh, bền vững được xem là một trong những quan điểm lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định quan điểm phát triển đồng bộ thị trường các nhân tố sản xuất như là một yếu tố quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu phát triển. Theo đó, giai đoạn 2021-2025, "tiếp tục vận hành đồng bộ thị trường quyền sử dụng đất, thị trường lao động, thị trường BĐS, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường tài chính... theo chuẩn mực của nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế”. Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các định hướng phát triển thị trường BĐS cũng đã được thể hiện trong các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ. Cụ thể 1 Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; 2 Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao; 3 Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 ban hành theo Quyết định số 2161/QĐ-TTg ngày 22/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững... đã khẳng định phát triển thị trường BĐS là một nội dung quan trọng trong phát triển nền kinh tế trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Cùng với đó, các định hướng phát triển trái phiếu BĐS được điều chỉnh dưới tác động của Nghị định số 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán TPDN ra thị trường quốc tế. Theo đó, đây là một hướng mở để giải quyết các vấn đề tồn tại trên thị trường trái phiếu nói chung và thị trường trái phiếu BĐS nói riêng. Một số khuyến nghị chính sách Việc Đảng, Nhà nước và Chính phủ tập trung chỉ đạo, ban hành các văn bản và chỉ đạo triển khai quyết liệt các biện pháp tháo gỡ khó khăn trong đó có vấn đề TPDN là một trong những động lực, quan trọng cho thị trường BĐS. Tuy nhiên, trong thực hiện cần Một là, đồng bộ, linh hoạt, chặt chẽ chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định môi trường đầu tư, đảm bảo sự nhất quán, ổn định chính sách để nhà đầu tư yên tâm tham gia hoạt động, đầu tư trên thị trường TPDN BĐS nói riêng và thị trường BĐS nói chung. Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý cho trái phiếu BĐS. Cần hoàn thiện thể chế với việc định giá, phát hành, tư vấn, mua bán trái phiếu BĐS, quy định rõ ràng tổ chức, định chế nào được tư vấn, tổ chức nào được xếp hạng tín nhiệm, tổ chức nào được mua bán sản phẩm nợ. Bên cạnh đó, cần có những sửa đổi quy định về định giá đất theo hướng đơn vị tư vấn khung giá và đơn vị thẩm định giá phải độc lập với cơ quan làm chính sách, cơ quan quản lý và giám sát về đất đai, cơ quan đại diện chủ sở hữu. Ba là, triển khai đồng bộ các giải pháp về hoàn thiện chính sách theo hướng tăng cường quản lý giám sát thị trường trái phiếu BĐS, nâng cao chất lượng hàng hóa, cải thiện chất lượng của các tổ chức cung cấp dịch vụ… Rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển các nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhà đầu tư dài hạn quỹ đầu tư để tạo cầu đầu tư bền vững cho thị trường. Đồng thời, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến trái phiếu BĐS, làm trong sạch thị trường chứng khoán và thị trường TPDN. Kiểm soát các hoạt động phát hành trái phiếu BĐS một cách ồ ạt ra thị trường, buộc các DN phải cân nhắc thật cẩn trọng và xây dựng chiến lược an toàn. Bốn là, tăng cường các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường, tiếp tục theo dõi, yêu cầu các DN phải bố trí nguồn lực để thanh toán gốc và lãi trái phiếu đến hạn theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Yêu cầu các DN nếu có khó khăn trong thanh toán thì phải làm việc, đàm phán với các nhà đầu tư để thống nhất phương án cơ cấu lại trái phiếu. Khẩn trương xây dựng và đưa hệ thống giao dịch TPDN riêng lẻ vào hoạt động nhằm phát triển thị trường thứ cấp minh bạch, an toàn, tăng cường khả năng quản lý, giám sát, giảm thiểu rủi ro. Năm là, nghiên cứu xây dựng các quy định về chỉ tiêu an toàn tài chính trong thị trường BĐS – trong đó có trái phiếu Gắn việc tạo lập các chỉ số an toàn thị trường BĐS với việc ban hành hệ thống chỉ số liên quan đến thị trường đất đai, nhà ở và BĐS. Đưa nội dung này vào Luật Đất đai sẽ sửa đổi và thông qua năm 2023; Luật Nhà ở sẽ sửa đổi và thông qua năm 2023 và Luật kinh doanh BĐS sẽ sửa đổi và thông qua năm 2023. Sáu là, tăng cường công tác truyền thông về trái phiếu, về công cụ tài chính, về thị trường BĐS theo hướng phản ánh đúng tình hình, có cảnh báo theo hướng công khai, minh bạch, dự báo được. Tăng cường công tác truyền thông ổn định tâm lý, tạo dựng lại niềm tin của nhà đầu tư, giúp các DN, nhà đầu tư an tâm tham gia huy động và đầu tư trên thị trường vốn. Bảy là, DN phát hành trái phiếu BĐS cần tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch thông tin. Nhiều trường hợp DN sẽ che giấu một số thông tin khiến nhà đầu tư không thể đánh giá được thị trường, các rủi ro tiềm ẩn dẫn đến việc nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng về quyền lợi. Giải pháp hiệu quả, kịp thời để khắc phục vấn đề công bố thông tin, cơ quan quản lý nhà nước đã bổ sung thêm các yêu cầu đối với các DN phát hành trái phiếu nói chung và trái phiếu BĐS nói riêng. Tóm lại Tóm lại, để thị trường BĐS vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, phụ thuộc và việc triển khai các chủ trương, văn bản đã được ban hành. Tuy nhiên, cũng còn cần lưu ý đến các điều kiện quốc tế tác động đến kinh tế Việt Nam. Nếu mọi vấn đề được diễn ra thuận lợi, một chu kỳ mới của thị trường BĐS sẽ hình thành. Cũng như vậy, các công cụ tài chính BĐS sẽ ra đời, phát triển đóng góp vào sự phát triển của thị trường BĐS. Tài liệu tham khảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Bộ Tài chính, Báo cáo số 13362/BTC-NSNN ngày 20/12/2022 về kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế; Thị trường trái phiếu doanh nghiệp Thực tiễn năm 2022 và triển vọng năm 2023. Trần Đình Thiên, 2023, Kinh tế tư nhân Việt Nam triển vọng trong bối cảnh mới, Hội thảo khoa học toàn quốc lần thứ nhất. Đà Nẵng, 21-22/3/2023; Các website

sự phát triển của doanh nghiệp việt nam