Nhạc Múa Dân Tộc Dao - Dong Feng Tải download 320 nhạc chờ Nhac Mua Dan Toc Dao,- Dong Feng Mèo Ú Guitar , Trần Hoài Phương , Hòa Tấu Nhạc Cụ Dân Tộc Phạm Đức Thành , Xuân Nhung , Việt Hồng , Ban Nhạc Hương Sen . Hòa Tấu Trữ Tình Việt Vĩnh Tâm ,
Mưa rừng ơi! Mưa rừng… Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên Phải chăng mưa buồn vì tình đời Mưa sầu vì lòng người duyên Tìm kiếm. Đăng ký|Đăng nhập Hợp âm Sheet nhạc Vui Nhạc Chế Lời Nhạc Dân Ca Nhạc Đỏ Nhạc Hoa Nhạc Học tr
H'Mông là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Lịch sử và văn hóa của họ có nhiều nét riêng thú vị. Về mặt nguồn gốc, dân tộc H'Mông (hay còn gọi là Mông, Mèo) là một bộ phận cư dân ở Đông Nam á, có nguồn gốc chung với người Dao sinh tụ
DiVit cho thuê đồ múa dân tộc HMông - Mèo giá rẻ, trang phục đẹp, dễ mặc, vừa vặn cho nhiều đối tượng sử dụng. Cho thuê và may bán đồ múa 54 dân tộc Việt
slTKGK.
Ca khúc Múa Mông Mèo do ca sĩ thể hiện, thuộc thể loại Thể Loại Khác. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát mua mong meo mp3, playlist/album, MV/Video mua mong meo miễn phí tại
Múa khèn Múa khèn là múa dân gian dân tộc Mông trong các cuộc vui, trong hội hè và phiên chợ xuân, là điệu múa của nam giới, rất độc đáo, có tinh thần thượng võ, tính cách mạnh mẽ, dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo, tài hoa với nhiều yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật cao, phải vừa thổi khèn vừa múa mà không được để khèn ngắt quãng. Động tác múa khèn phong phú, đa dạng. Người ta thống kê được 33 động tác, tổ hợp múa khèn. Cây khèn vừa là nhạc cụ độc đáo, gồm nhiều ống trúc nhỏ ghép lại, có thể thổi hơi ra, có thể hít hơi vào; khèn vừa là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các thế quay, nhảy... Tiếng khèn có thể một lúc phát ra đa âm, nhiều bè, vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn, của suối reo, chim kêu, vượn hót, tiết tấu theo nhịp 4/4 hoặc 2/4 thích hợp với các động tác múa khèn Vang vọng núi rừng tiếng khèn gọi bạn Điệu múa khèn nghiêng ngả tán ô đen Có thể nhiều chàng trai Mông cùng nhau múa khèn trên bãi cỏ, đất bằng phẳng với những vũ đạo đẹp mắt, những bước nhún, bước đảo, bước quay hoặc vừa ôm khèn vừa lăn mình trên đất. Ngoài ra có nhiều nghệ nhân có trình độ múa khèn điêu luyện, biểu diễn nhiều mô típ siêu việt, độc đáo múa khèn trên một gốc cây lớn cưa bằng, trên 4 cọc trồng hình vuông hay trên cây gỗ tròn bắc qua suối... Múa khèn Mông với các vũ điệu đẹp, tài hoa, dũng mãnh và trữ tình, có sức sống mãnh liệt, lâu bền của văn hoá Mông, được nhân dân trong, ngoài nước yêu thích, ngưỡng mộ. Các dân tộc khác ở Tây Bắc cũng có những điệu múa dân gian riêng, như điệu tăng bu dỗ ống của dân tộc La Ha với những cô gái nhún nhảy mềm mại uyển chuyển trong tiếng đệm rộn ràng của một dàn ống tre đục rỗng mắt, hay những vũ điệu đầy sức hấp dẫn với các động tác lắc mông, lượn eo uyển chuyển của dân tộc Khơ Mú, Xinh Mun thật sinh động và quyến rũ, hay điệu múa chuông nổi tiếng của dân tộc Dao. Những điệu múa dân gian Tây Bắc vốn là sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng cao đã tồn tại lâu đời trong đời sống tinh thần của bà con các dân tộc thiểu số. Múa dân gian Tây Bắc hấp dẫn, có sức lôi cuốn mạnh mẽ, bởi trong đó chứa đựng nhiều giá trị nhân văn, nhiều khát vọng của con người. Múa như ngọn lửa diệu kỳ cháy mãi lên ca ngợi những gì là tốt đẹp nhất của tình yêu và cuộc sống
Dân tộc Mông, dân tộc thiểu số đặc biệt trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, sống chủ yếu trên những vùng núi có độ cao từ m trở lên. Cùng với 53 dân tộc anh em, người Mông luôn là một phần trong sự thống nhất của khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú văn hoá các dân tộc Việt Nam Sự phân bố dân cư và lịch sử. Người Mèo là một trong bảy dân tộc thiểu số tương đối đông ở miền Bắc nước ta, có người Theo thống kê năm 2009, sống ở vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hà Tây. Trong các tỉnh người Mèo cư trú xen kẽ với nhiều dân tộc anh em khác, nhưng không giống với nhiều dân tộc như Dao, Lô Lô, Pu Péo…Họ ở tập trung thành từng vùng rõ rệt, trong đó người Mèo chiếm tỉ lệ dân số cao so với các dân tộc anh em cùng chung sống. Những khu vực tập trung đông người Mèo ở miền Bắc nước ta là cao nguyên Đồng Văn, Hoàng Su Phì – Bắc Hà – Mường Khương, Mù Cang Chải – Trạm Tấu – Bắc Yên, Sa Pa – Phong Thổ – Sìn Hồ – Tủa Chùa, Điện Biên và các khu vực tiếp giáp của các huyện Thuận Châu và Tuần Giáo. Những vùng cư trú của người Mèo không gắn liền với nhau thành một dải, mà thường bị ngăn cách bởi nhiều khu vực cư trú của các dân tộc, nhưng trong quan hệ dòng họ và hôn nhân, nhân dân các vùng nhất là các vùng tiếp giáp nhau còn những mối liên hệ nhất định. Các vùng cư trú của đồng bào Mèo thường là những sườn núi có độ dốc cao trung bình từ 800m đến – so với mực nước biển, địa hình hiểm trở, vách đá dựng đứng trên những thung lũng dạng hẻm vực. Ở Tây Bắc địa hình cao hơn và sự chia cắt theo chiều đứng mạnh hơn so với Đông Bắc. Ở độ cao từ 800m – khí hậu vùng Mèo nằm trong vành đai khí hậu cận nhiệt đới, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15 – 20 độ C. Lượng mưa hàng năm từ – milimét, nhưng ở những nơi khuất gió, lượng mưa chỉ độ 700 milimét. Đặc điểm độ mưa là một mùa mưa, một mùa khô mà trong mùa khô lượng mưa hàng tháng chỉ vài chục milimét hoặc có khi không mưa, nên thường thiếu nước. Đất ở vùng Mèo nằm trên khu đất latêric có mùn. Trên vành đai này ở những nơi rừng ít bị tàn phá thì thực vật còn nhiều, các cây rụng lá tăng lên, do đó tỉ lệ mùn đạt từ 5 – 8%. Vì có nhiều mùn nên đất màu xám, ở phía dưới đất màu nâu. Kiểu rừng rậm cận nhiệt đới, ẩm ướt thường thấy trên các núi cao Bắc Kạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên…Song rừng đã bị tàn phá nhiều, thoái hóa thành rừng thứ sinh hoặc xavan và mỗi vùng có đặc điểm riêng. Tuy nhiên vẫn chưa hết những cánh rừng nhiều thứ gỗ quí, nhiều thú ăn thịt và các loài ăn cỏ… Với tinh thần lao động cần cù và sáng tạo người Mèo biến nhiều vùng cao miền Bắc nước ta thành nơi có thể sinh sống ngày càng giàu đẹp, thành quê hương thân yêu của mình. Đồng bào thường nói Cá ở dưới nước Chim bay trên trời, Chúng ta sống ở vùng cao. Và con chim có tổ, Người Mèo ta cũng có quê, Quê ta là Mèo Vạc. Đồng bào ở cao nguyên Đồng Văn còn cho rằng trên đỉnh núi Mèo Vạc có giếng thần và có đôi chim chuyên nhặt lá cây để nước giếng trong sạch. Người ta muốn uống nước giếng thần để khi ốm đau bệnh chóng khỏi, khi chết hồn được về với tổ tiên. Vì vậy trước đây những người có tuổi đều mong muốn đến thăm Mèo Vạc – “nơi quê cha đất tổ” và “ được uống nước giếng thần” . Lòng yêu quê hương xứ sở; trên cơ sở đó nảy nở lòng yêu nước Việt Nam anh hùng của người Mèo. Lòng yêu nước đó ngày càng được củng cố trong quá trình sát cánh cùng các dân tôc anh em đấu tranh bảo vệ đất nước và xây dưng cuộc sống mới. Đại bộ phận người Mèo nước ta gọi là Mống sau này gọi là Mông, một nhóm người khác gọi là Ná Miảo. Mống cũng là tên tự gọi người Mèo ở Lào, Thái Lan và ở Xuyên, Kiềm, Diên Nam Trung Quốc. Ngoài ý nghĩa chỉ cộng đồng tộc người, Mống còn là từ gọi dòng họ. Mèo là tên gọi có nguồn gốc lịch sử lâu đời. Tộc danh Mèo theo âm Hán – Việt là Miêu, theo một số nhà nghiên cứu là tên dùng để gọi những người đã sớm biết nghề trồng lúa ở vùng hồ Bành Lãi Tỉnh Giang Châu và hồ Động Đình Tỉnh Hồ Nam Trung Quốc ngày nay, ngày nay đã trở thành tên gọi chính thức. Dựa vào một số đặc điểm dân tộc học, có thể phân người Mèo tự gọi là Mống ở nước ta thành các nhóm Mông trắng, Mông hoa, Mông xanh, Mông đen. Người Mèo được coi là con cháu của một trong những cư dân bản địa cổ ở Nam Trung Quốc. Sự gần gũi giữa tiếng Mèo và tiếng Dao được nhiều người giải thích bằng nguồn gốc chung của hai dân tộc này trong thời cổ đại. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX, người Mèo và người Dao bắt đầu tách thành những cộng đồng dân tộc riêng. Từ thế kỷ thứ IX đến thế kỷ XVI, người Mèo phải thường xuyên đi về phía Nam để tránh sự áp bức bóc lột của phong kiến. Trong các thế kỷ đó, người Mèo ở Quí Châu tương đối đông. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX dưới sự thống trị của nhà Mãn Thanh, chế độ thổ ty cha truyền con nối có từ thời Minh đã được thay bằng chế độ bổ nhiệm hơn nữa chỉ bổ nhiệm người Mãn và người Hán, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các dân tộc khác trong đó có người Mèo và hai dân tộc này. Mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội được thể hiện rõ trong các phong trào nổi dậy của quần chúng; đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, người Mèo đã tham gia khá đông. Dưới thời Quốc Dân Đảng, người Mèo cũng không tránh khỏi bị áp bức bóc lột nặng nề và phải đấu tranh không ngừng. Từ Tây Nam Trung Quốc, người Mèo đã di cư đến Việt Nam trong những thời gian và nhiều đợt khác nhau. Nguyên nhân của các cuộc di cư như đã nói là sự mong muốn thoát khỏi tình trạng áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến Mãn – Hán, muốn thoát khỏi sư tàn sát sau những cuộc phản kháng, muốn có nơi sinh sống tốt hơn. Những đợt di cư đầu tiên của người Mèo cách đây gần 400 năm đến các vùng biên giới thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái. Sau đó, các luồng di cư lớn vào khoảng 300 năm và gần 200 năm trước đây. Hầu hết người Mèo nước ta còn nhớ là họ đã từ Quí Châu đến Việt Nam. Lịch sử thiên di của người Mèo cũng là lịch sử đấu tranh không ngừng chống phong kiến áp bức dân tộc. Đến Việt Nam họ mong muốn có cuộc sống ổn định và ấm no hơn. Trong đồng bào có lưu truyền rằng Việt Nam là nơi có nhiều đất đai màu mỡ và dễ làm ăn, nơi có quả bí to như cái vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó đẻ con, nó vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn; nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa. Trước khi đồng bào đến những vùng hiện nay, ở đó đã có người sinh sống, nhưng rất thưa thớt, rừng rậm còn nhiều, đất mới khai thác, mùa màng thường tốt. Dần dần đồng bào đã có những đám nương, ruộng bậc thang mà mình cần. Nhưng ở đây họ cũng không thoát khỏi ách bóc lột, nhất là từ lúc thưc dân Pháp xâm lược đặt ách thống trị. Bởi vậy, nhiều cuộc đấu tranh của người Mèo đã nổ ra – Cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp xâm nhập Bắc Hà do hai anh em Dương Chính Hồng Giàng Chẩn Hùng và Dương Chính Vinh Giàng Chẩn Dùng lãnh đạo 1886 – 1897. – Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của người Mèo và Dao do Đào Chính Lục Thào Chểnh Lù và Đặng Phúc Thành đứng đầu ở Mù Cang Chải, Than Uyên, Văn Chấn tỉnh Yên Bái 1889 – 1897. – Cuộc đấu tranh chống phu, thuế của đồng bào Mèo 2 tỉnh Cao Lạng 1904. – Cuộc đấu tranh của đồng bào Mèo ở cao nguyên Đồng Văn tỉnh Hà Giang do Sùng Mí Chiảng lãnh đạo 1911 – 1912. – Cuộc đấu tranh của đồng bào Mèo Lai Châu, Điện Biên, Sơn La do Pa Chay lãnh đạo 1918 – 1922. Đặc điểm nổi bật của các cuộc đấu tranh đều là đấu tranh vũ trang với tinh thần dân tộc cao với mục đích đấu tranh cụ thể “không đi phu, không nộp thuế, tự do chuyên chở muối và thuốc phiện” 1911 – 1912, “Quyết tâm tiêu diệt đồn Bắc Hà” 1886 – 1897”. Vì thế đã nhanh chóng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân bao gồm cả già trẻ, gái trai tiến hành đấu tranh vũ trang gây cho địch nhiều tổn thất. Bọn thực dân Pháp đã phải huy động những lực lượng lớn để tiến hành càn quét phá hoại mùa màng lương thực, vừa đàn áp, vừa mua chuộc lôi kéo quần chúng. Người Mèo đã chiến đấu ngoan cường, thực hiện vườn không nhà trống, hy sinh tất cả; nhưng cuối cùng họ đều thất bại vì sự lạc hậu về tổ chức, lãnh đạo, chưa biết đoàn kết các dân tộc anh em. Tuy vậy, bọn thực dân Pháp đã không dập tắt được tinh thần phản kháng của đồng bào. Tinh thần đó được phát huy mạnh mẽ khi có sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân. Còn nữa
Lượt xem Trang phục Mèo, H’Mông nữ trắng xanh độc đáo. Trang phục Mèo Hmông nữ phù hợp biểu diễn văn nghệ với các ca khúc như “Hương Rừng”, hát ” Dân ca H’Mông”, Gắng lên người H’Mông… Bộ trang phục được thiết kế với tay lở, loe phần ống tay. Thân áo được viền các họa tiết thổ cẩm đặc sắc, sống động và đặc trưng. Chân váy với chất liệu cách tân với suýt nhập ngoại mềm mại, mát mẻ. Nó cũng được viền các họa tiết thổ cẩm đồng bộ với chiếc áo trắng. Bộ trang phục được đi kèm chiếc yếm cột ngang eo, mấn đội đầu với họa tiết và tua rua đính xung quanh rất bắt mắt. Trang phục được DiVit tự chụp đăng lên, mẫu giống ảnh 100% nên quý khách hoàn toàn yên tâm. Với giá thuê 3 ngày chỉ 80k/bộ trang phục dân tộc H’Mông Mèo nữ, quý khách có thể thoải mái lấy đồ và trả đồ mà không phải lo lắng thời gian gấp gáp. Quý khách cần thuê trang phục dân tộc hoặc đặt may có thể liên hệ. Địa chỉ cửa hàng 309/3 Nguyễn Oanh, p17, Gò Vấp, HCM. Điện thoại tư vấn may bán 0902 992220 Điện thoại thuê đồ 0909717977 Facebook chính Xem mẫu trang phục dân tộc H’Mông mèo nam bên dưới. Dân tộc H’mông Mèo nam
nhạc múa hoa rừng dân tộc mông múa mèo